Con kỳ lân và con nghê
Trong rất nhiều chi tiết trang trí kiến trúc hiện nay, hình
tượng kỳ lân và nghê tạo ra nhiều ngộ nhận hơn cả. Đằng sau hai hình tượng này
là câu chuyện về quá trình tiếp nhận văn hóa của người Việt.
Mặt Nghê đá đời Trần
Con
vật báo điềm lành
Kỳ lân là một
trong 4 linh vật: long, ly, quy, phượng theo tín ngưỡng dân gian Á Đông như tại
Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam… Kỳ lân là một con vật tưởng
tượng, có đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao
giờ nên sừng này (được coi) là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng
nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân
hươu, đuôi bò. Đôi khi nó có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đuôi bò,
trán sói, móng ngựa, da có 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, dưới bụng có màu
vàng.
Con vật này
lắm lúc xuất hiện với mình của một con hoẵng, có vảy cá ở thân… Nhưng dù xuất
hiện với hình dạng như thế nào thì trong trí tưởng tượng của tín ngưỡng dân
gian phương Đông, kỳ lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho
sự trường thọ, sự nguy nga đường bệ và niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang
trong mình tất cả những phẩm chất của một con vật nhân từ, nó tránh giẫm lên
các loại côn trùng, cũng như không phá hoại cỏ mềm dưới chân mình.
Nó không bao
giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào cũng như không bao giờ uống nước
bẩn. Kỳ lân xuất hiện đồng nghĩa với việc một vị minh quân, một nhà hiền triết
nào đó sắp ra đời. Sử sách Trung Quốc cho rằng trong lịch sử, kỳ lân đã xuất
hiện dưới triều vua Nghiêu, Thuấn và sau đó là vào thời điểm Khổng Tử ra đời.
Là con vật
biểu trưng cho niềm vui và may mắn nên kỳ lân được sử dụng nhiều trong các chi
tiết trang trí kiến trúc. Lân được dùng như một kiểu trang trí trên các bức
bình phong của chùa, đền, miếu… lắm lúc chuyên chở trên lưng các bức cổ đồ,
hình bát quái… với ý niệm thể hiện sự may mắn luôn song hành cùng chữ nghĩa,
đạo lý cuộc đời, đó là sự bảo trợ cần thiết mang tính linh thiêng. Thỉnh
thoảng, lân cũng được gửi gắm như con vật linh bảo vệ cho các công trình kiến
trúc, dinh thự, lăng mộ… từ Trung Quốc, hình tượng kỳ lân với đầy đủ ý nghĩa
của nó đã vào Việt Nam theo bước chân xâm lăng và ý muốn đồng hóa dân tộc Việt
của người Hán.
Sự truyền bá
văn hóa đó đã diễn ra có lúc mãnh liệt có lúc tàn bạo với ý muốn hủy diệt. Hình
tượng kỳ lân từ đó đã xuất hiện nhiều hơn ở Việt Nam, ngay cả khi đất nước đã giành
được độc lập. Tuy nhiên, bên cạnh chi tiết trang trí kỳ lân, trên các công
trình kiến trúc, đồ gốm, đồ đồng… ở nước ta còn xuất hiện thêm hình tượng trang
trí có hình dáng giống với kỳ lân nhưng không hẳn là kỳ lân.
L.Cadiere, vị
linh mục người Pháp có tinh thần khách quan trong những công trình nghiên cứu
về văn hóa Việt Nam,
đã nêu nghi vấn về chi tiết trang trí này. “Có một con vật rõ ràng không
phải là con kỳ lân thực sự, mà nó có vẻ là con sư tử, hay là thuộc một giống
vật khác; trong lúc đó nó lại được người Việt Nam gọi là con kỳ lân. Đó là con
vật mà chúng ta thấy ở trên đầu các trụ trước các đền chùa. Bộ lông, cái đầu,
cái đuôi, nhất là những móng vuốt, thay cho những móng đề, đã làm cho con vật
này giống với con sư tử hơn là một con kỳ lân”.
Sự nghi ngờ
ấy là có cơ sở vì kỳ lân là một con vật tưởng tượng, sẽ hiện diện trên thực tế
với ý niệm và tâm hồn của văn hóa đất nước nó đang tồn tại. Con vật được người
Việt sử dụng nhiều trong các công trình kiến trúc nhằm chuyển tải ước muốn may
mắn hẳn nhiên chịu ảnh hưởng của con kỳ lân Trung Hoa nhưng sẽ sai lầm nếu cho
rằng đó là hoàn toàn hình mẫu căn bản từ con kỳ lân đến từ phương Bắc.
Linh
vật thuần Việt
Trong các chi
tiết trang trí kiến trúc của văn hóa Việt Nam, vẫn tồn tại hình tượng con
nghê với những miêu tả về hình dáng giống với con kỳ lân Trung Quốc. Đó
là con vật mình không lớn, không có sừng, chân ngắn và thường có móng vuốt,
không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng
nhỏ nhắn, phần nào thể hiện nét tinh nghịch và vui tươi, nghê là chi tiết trang
trí được sử dụng nhiều ở Việt Nam.
Tác giả Bùi
Ngọc Tuấn trong cuốn Đồ gốm cổ truyền Việt Nam đã cho rằng
nếu kỳ lân là hình tượng của văn hóa Trung Hoa thì nghê là hình tượng mang đầy
đủ ý niệm và tâm linh của người Việt Nam. “Trong đời sống của người dân Việt,
hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất
là con trâu và con chó. Trâu để cày ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ
nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ.
Đời sống thực
tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh
vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng
quên miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo
vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở
ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia
chủ.
Những con chó
đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là
những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt
nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ (…) Rồi để bày trước
điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu, chó đá
hóa linh. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy
những nét oai nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê”.
Quả thật, con
Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được
chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đặt trên
đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã
tấu) nên gọi là đầu đao), như trên cốn đình làng An Hòa (Hà Nam), Phất Lộc
(Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh), đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc
Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)… chẳng hạn. Cho nên,
tác giả Bùi Ngọc Tuấn kết luận: “Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt được
sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt”.
Lý giải của
tác giả Bùi Ngọc Tuấn không phải không có cơ sở vì con chó trong văn hóa Việt
Nam là một con vật sống gần gũi, gắn bó với con người. Điều đó được minh chứng
trong rất nhiều câu chuyện thần thoại, truyền thuyết lưu giữ trong dân gian của
dân tộc Việt, Mường… Nhìn lại cụ thể, chi tiết kiến trúc mà L.Cadiere nghi vấn
ở trên có thể có hình dạng từ con chó. Tất nhiên, hình tượng đó đã được trí
tưởng tượng của người dân đất Việt thêm thắt cho phù hợp với ý muốn và sự cầu
mong may mắn của mình.
Tuy nhiên,
tất cả những lý giải trên đều chỉ là phỏng đoán; và vẫn chưa có cứ liệu cụ thể
để khẳng định hình tượng con nghê xuất phát từ hình dạng con chó. Chúng ta đều
thừa nhận trong văn hóa Việt, con chó là con vật gần gũi, thân thiết với cuộc
sống con người như những lý giải của tác giả Bùi Ngọc Tuấn. Nhưng rõ ràng con
chó đối với người Việt vẫn chưa được thiêng hóa đến mức có thể coi là vật linh
để được khắc họa trên các trụ biểu, đầu đao hay trấn giữ cổng chùa, đền, miếu…
Vẫn còn đó những danh xưng có phần miệt thị và bạc bẽo tồn tại trong dân gian
dành cho con chó, đồ con chó, đồ chó đẻ…
Trên thực tế,
nghê (hay toan nghê) trong tiếng Hán có nghĩa là con sư tử. Điều đó có đồng
nghĩa nghê chỉ là con vật mang hình dạng của sư tử? Merher Mc Arthur chỉ rõ:
“tại cổng vào của một số đền chùa, nhất là ở Đông Á và Đông Nam Á thường có một
cặp nghê, một thứ linh thú tựa như sư tử, từ Hán Việt là Phật sư, trấn giữ”.
Nhìn đại thể, văn hóa Việt Nam với cơ tầng vốn có của mình bên cạnh việc tiếp
thu có chọn lọc những giá trị văn hóa của người Hán đã tiếp nhận trong hòa đồng
một phần văn hóa Ën Độ, cụ thể ở đây là Phật giáo.
Nếu văn hóa
Hán theo bước chân những đạo quân xâm lăng phương Bắc tràn vào Việt Nam
thì văn hóa Phật giáo đến với người Việt một cách nhu mì hơn. Người Việt trong
hoàn cảnh phải chống lại thế lực hùng mạnh phía Bắc đã nương nhờ vào triết lý
từ bi, khoan dung của Phật giáo để tồn tại suốt thời kỳ Bắc thuộc cũng như thời
kỳ đầu độc lập.
Vì vậy, không
phải ngẫu nhiên mà các nhà Lý, Trần chọn Phật giáo làm tôn giáo chính của đất
nước dù trên danh nghĩa tôn giáo này không phải là quốc giáo. Các vị sư sãi đã
đóng những vai trò quan trọng trong triều đình; chùa chiền, tự viện mọc lên
khắp đất nước thời kỳ này (và cả về sau)… Phật giáo đã hòa vào lòng dân tộc
Việt Nam; nói đến văn hóa Phật
giáo cũng đồng nghĩa với việc đang nói đến văn hóa Việt Nam.
Hiểu rõ điều
này ta sẽ dễ dàng chấp nhận tượng nghê ở đầu các trụ biểu, đầu đao, cổng chùa,
đền, miếu… là hình tượng của Phật sư hay sư tử trong văn hóa Phật giáo. Trong
lịch sử Phật giáo, sau khi Đức Phật giác ngộ, người ta thường nhắc đến Ngài như
là Con sư tử của dòng họ Shakyas cũng như nói đến nguồn gốc vương giả và thừa
nhận uy lực tâm linh vô biên của Ngài. Sư tử trong văn hóa Phật giáo thường
biểu thị uy lực của Phật pháp; nhưng trong hình tượng chung, sư tử thể hiện sức
mạnh của con vật là chúa tể muôn loài, quyền năng và quý trọng. Hình tượng sư
tử ở ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam
có những nét không giống nhau tùy theo cách hiểu và vận dụng ý nghĩa ban đầu
của con vật này ở mỗi nền văn hóa.
Như vậy với
văn hóa Việt Nam,
hình tượng con nghê rất có thể bắt nguồn từ Phật sư, nhưng hình tượng ấy được
thể hiện nhỏ nhắn và linh động hơn. Người Việt Nam đã khôn khéo xây dựng cho riêng
mình con nghê không giống với nghê mang hình dáng sư tử, bệ vệ trên các công
trình của Phật giáo ấËn Độ (hoặc các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo và văn hóa
ấn Độ).
Nó cũng là
một biểu tượng khác với kỳ lân hay sư tử Trung Quốc. Nghê trong hình tượng
trang trí ở Việt Nam
không có thân hình cao lớn của ngựa như sự tưởng tượng về con kỳ lân, đuôi hẳn
nhiên không phải là đuôi bò, thân ít khi có vảy cá. Nghê cũng không có đầu nửa
rồng nửa thú và lại không có sừng. Nghê trong mỹ thuật trang trí của người Việt
có thân hình vừa phải, không quá to như thân sư tử. Dáng đứng của nghê cũng
không quá chú trọng đến việc tạo ra sự hiên ngang, khí phách mà thay vào đó là
sự uyển chuyển và nhẹ nhàng.
Tựu trung lại, hình tượng nghê và kỳ lân trong
nghệ thuật trang trí trên các công trình kiến trúc ở Việt Nam là hai hình tượng khác nhau. Kỳ
lân là hình tượng mang phong cách văn hóa Trung Hoa trong khi nghê là linh vật
bắt nguồn từ Phật giáo nhưng đã được người Việt cải biến. Đó cũng là một điều
dễ hiểu. Trong văn hóa Việt Nam,
qua quá trình tiếp xúc với văn hóa bên ngoài, người Việt đã tiếp thu những điều
cần thiết và cải biến chúng mang hồn Việt và văn hóa Việt. Trường hợp con kỳ
lân và con nghê là ví dụ cụ thể.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét