THẦN
TÍCH - THẦN SẮC
Làng: Tiên Đôi Nội
Tổng: Tử Đôi.
Huyện: Tiên Lãng.
Tỉnh: Kiến An.
(Thôn Tiên Đôi Nội xã Đoàn Lập huyện Tiên Lãng thành
phố Hải Phòng)
Sao lục: Đoàn Lập, ngày 10 tháng 12 năm 2013.
THẦN TÍCH LÀNG TIÊN
ĐÔI NỘI TỔNG TỬ ĐÔI
HUYỆN TIÊN LÃNG TỈNH
KIẾN AN
Đạo
thứ nhất:
Phiên âm:
Sắc
chỉ Hải Dương tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Nội thôn tòng tiền phụng sự Bản
cảnh thành hoàng Linh phù chi thần, tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng
sự. Tự Đức tam thập niên chính trị Trẫm ngũ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo
chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự, dụng chí quốc
khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!
Tự Đức tam thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thập
tứ nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho thôn Tiên Đôi Nội huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Dương từ trước vẫn thờ phụng
Bản cảnh Thành Hoàng Linh phù chi thần. Đã nhiều đời được ban cấp sắc phong cho
phép thờ phụng. Năm Tự Đức 31(1878), đúng dịp lễ mừng thọ Trẫm ngũ tuần nên ban
cho bảo chiếu đàm ân, tăng thêm phẩm trật. Cho phép được thờ phụng như cũ để ghi
nhớ ngày quốc khánh và làm rõ phép thờ phụng. Kính thay.
Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức 33(1880)
Đạo
thứ 2:
Phiên âm:
Sắc
Bản cảnh Thành Hoàng Linh phù chi thần, hướng lai hộ quốc tí dân nẫm trứ linh
ứng, tiết mông ban cáp tặng sắc lưu tự. Tứ kinh phi ưng cảnh mệnh, diến niệm
thần hưu, khả gia tặng dực bảo trung hưng chi thần. Nhưng chuẩn hứa hải Dương
tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi xã Nội Thôn y cựu phụng sự. Thần kì tương hựu.
Đồng khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc
ban cho Bản cảnh Thành Hoàng Linh phù chi thần, cứu nước giúp dân rất là linh
ứng. Nhiều đời được ban cấp tặng sắc thờ tự. Nay trẩm nối mệnh lớn, nhớ đến
công thần, nên gia tặng Dực bảo trung hưng chi thần. Cho phép thôn Nội xã Tiên
Đôi huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Dương được thờ phụng như cũ. Thần hãy phù trì giúp
rập cho dân ta. Kính thay!
Ngày mồng 1 tháng 7 năm Đồng Khánh 2 (1887)
Đạo
thứ 3:
Phiên Âm:
Sắc
chỉ Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Nội xã tòng tiền phụng sự nguyên tặng
Linh phù Dực Bảo trung hưng Bản cảnh Thành Hoàng Trung Túc Anh Nghị Trí
Minh chi thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong
chuẩn y phụng sự. Duy tân Nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban Bảo chiếu đàm
ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự
điển. Khâm tai!
Duy tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật.
Dịch
nghĩa:
Ban
sắc cho xã Tiên Đôi Nội huyện Tiên Lãng tỉnh Kiến An được thờ phụng Linh phù
Dực bảo trung hưng Bản cảnh Thành Hoàng Trung Túc Anh Nghị Trí Minh chi thần.
Đã nhiều đời được ban cấp sắc phong cho phép thờ phụng. Năm duy tân thứ nhất
(1907) nhân dịp lễ mừng Trẫm lên ngôi báu nên ban Bảo chiếu đàm ân, tăng thêm
phẩm trật. Cho phép được thờ phụng như cũ để ghi nhớ ngày quốc khánh và làn rõ
phép thờ phụng. Kính thay!
Ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân 3 (1909)
Đạo
tứ 4:
Phiên âm:
Sắc
Kiến An tỉnh Tiên Lãng huyện Tiên Đôi Nội xã tòng tiền phụng sự nguyên tặng
Linh phù Dực bảo trung hưng Bản cảnh Thành Hoàng Trung Túc Anh nghị Trí Minh
chi thần. Hộ quốc tí dân nẫm trứ Linh ứng, tiết mông ban sắc phong chuẩn hứa
phụng sự. Tứ kim chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh tiết ban bảo chiếu đàm ân, lễ
long đăng trật, trứ gia tặng Tĩnh hậu trung đẳng thần. Đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân
tự điển, Khâm tai!
Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Dịch
nghĩa:
Sắc
ban cho xã Tiên Đôi Nội huyện Tiên Lãng tỉnh Kiến An từ trước vẫn thờ phụng
nguyên tặng Linh phù Dực bảo trung hưng Bản cảnh Thành Hoàng Trung Túc
Anh Nghị Trí Minh Tôn Thần . Cứu nước giúp dân
rất là linh ứng. Đã nhiều đời được ban cấp sắc phong cho phép thờ phụng. Nay
đúng dịp lễ mừng thọ Trẫm tứ tuần nên ban cho bảo chiếu đàm ân tăng thêm phẩm
trật, gia tặng Tĩnh hậu trung dẳng thần. Cho phép được thờ phụng như cũ để ghi
nhớ ngày quốc khánh và làm rõ phép thờ phụng. Kính thay!
Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924)
NGỌC
PHẢ VỊ ĐẠI VƯƠNG CÔNG THẦN
TRIỀU
TRƯNG NỮ VƯƠNG
(Chi cấn bộ trung đẳng, bản chính tại bộ lễ triều
Lê)
Xét:
Xưa kia nước Nam
mở vận, phân chia non sông theo cương giới sao Chẩn, sao Dực, đất Bắc phân
phong, sắp đặt bờ cõi theo theo khu vực sao đẩu sao ngưu. Khoảng đời Hùng
Vương, vua Kinh Dương Vương vâng mệnh phân phong của vua cha trở thành tiên tổ
tông phái của các bậc đế vương nước Việt. Hoan châu danh thắng, xây dựng kinh
đô, nghĩa lĩnh hình cường, sửa sang Miếu Điện, truyền ngôi tiếp nối, lại xưng
Lạc Long Quân, kết duyên cùng tiên nữ ở Động Đình, sống trên núi nghĩa Lĩnh,
trên đỉnh núi thường có mây Ngũ sắc rực rỡ bao phủ, từ đó bà âu Cơ có mang, đến
kì sinh nở bà sinh một cái bọc trong có trăm trứng nở trăm người con trai khôi
ngô tuấn tú, đều là bậc thánh hiền tài cao đức độ hơn người thường. Khi đã
trưởng thành vua cha bèn phong hầu trấn giữ các nơi, phân chia nước ta thành mười
lăm bộ. Trước đó Long quân nói với Âu Cơ rằng: "Ta giống rồng, làng rống
tiên, tuy dương âm tương hợp mà sinh con nhưng vợ chồng chẳng hợp thủy hỏa
tương khắc không thể cùng nhau chung sống mãi được. Thế rồi chia năm mươi người
con theo cha xuống biển làm thủy thần cai trị nơi đầu nguồn góc biển, năm mươi
người con theo mẹ lên núi sơn thần cai trị chốn đỉnh núi sườn non. Lại hẹn ước
với nhau rằng hễ thấy ai có công việc thì cùng đến giúp đỡ, không được bỏ mặc.
Vì thế về sau nhà họ Hùng có trăm vị thần sơn thủy thường xuyên ứng hiện, biến
hóa thần thông, ngầm giúp đất nước, che chở muôn dân, nhà nào có phúc sẽ gặp
được điểm này"
Lại
nói: Bấy giờ vào cuối đời vua Hùng thứ 18, họ Hùng suy vi, ý trời làm ra như
thế. Trải đến các triều Đông Tây Hán lần lượt cai trị nước ta. khi ấy ở trang
Kim Sá huyện Siêu Loại phủ Thuận An đạo Kinh Bắc (Xưa gọi là quận Vũ Ninh) có
ông Nguyễn Húy Hiển lấy vợ là bà Vương thị người bản quận, hai vợ chồng sống
cảnh nghèo khó túng thiếu, chặt cây, kiếm củi sinh sống. Tuy vậy vẫn hết lòng
làm việc thiện một chút hại nhân cũng không làm, một ly lợi kỷ cũng không màng.
Dân nơi đây đều khen vợ chồng ông bà là nhà tích thiện tất sẽ được nhiều niềm
vui lớn. Vợ chồng ông một lòng ban hậu tích đức hiểm nỗi tuổi đã cao mà con cái
lại muộn mằn, ngày đêm vợ chồng ông cầu khấn buồn rầu không vui. Đêm hôm ấy vào khoảng cuối canh
ba, Vương thị đang mơ màng ngủ thiếp đi bỗng mộng thấy mình nuốt một ngôi sao,
thế là giật mình tỉnh dậy. Sớm hôm sau kể lại cho chồng nghe, ông nói
"Chắc có điềm lành rồi" . Từ đó bà Vương thị thấy trong mình có thai (Hôm ấy là ngày mồng 10 tháng giêng năm giáp thìn ) rồi sinh được một người con trai thiên tư đĩnh dị
diện mạo khôi kỳ, mắt thuấn mày nghiêu, vai thang lưng vũ, hình dung tú dị,
trông rất lạ thường. Khi ấy
trong phòng sinh có một dải mây vàng bao phủ trên nóc nhà, mãi đến tối mới tan.
Ông biết đây là thần nhân xuất thế nên rất yêu con và đặt tên là Minh. Ba tuổi
biết nói, hiểu điều lễ nghĩa, biết kính trên nhường dưới, biết văn học hiểu âm
luật. Bẩy tuổi ông đi học chỉ liếc mắt qua một lượt đã biết, khi ông 12 tuổi
thiên tư cao mại, học lực tinh thông, thiên văn địa lý ông đều quán triệt,
thuộc binh thư, giỏi võ nghệ, sĩ tử đương thời đều thán phục ông, họ đều khen
ông là Thánh đồng. Khi ông 16 tuổi trao ôi! Những biến cố không lường trước
được, họa vô đơn trí, cha mẹ ông đều qua đời, ông chọn đất tốt làm lễ an táng,
đèn nhang thờ phụng cha mẹ theo đúng nghi thức trong 3 năm. Ông ngẫm nghĩ trong
lòng muốn làm việc lớn giáo hóa sĩ dân. Khi ấy ông nhàn du sơn thủy, đi đến khu
Tiên Đôi Nội huyện Tân Minh (Xưa gọi là Bình Hà đến đời hậu lê đổi là Tiên
Minh) phủ Nam sách đạo Hải Dương (Xưa gọi là Hồng Châu) thấy địa thế nhất cục,
sông núi uốn quanh, rồng chầu hổ phục phía trước có thể mở mang, phượng hoàng
chầu phục, tả hữu đột khai long nhãn, lưỡng tỉnh tiền hậu, phong tinh dẫn mạch,
nơi nơi đều chầu về, đúng là một phong quang thắng cảnh vậy. Hơn nữa thấy dân
phong thật thà quê mùa, học thuật còn ít biết nên ông liền lập một trường học ở
đây để dạy dân biết chữ, dạy dỗ dân dần dần lễ nghĩa ân phú. Mới được mấy năm,
khi ấy đất nước thuộc Hán Quang Vũ, Hán Quang Vũ để Tô Định làm Thái thú Giao
Châu , bọn Tô Định tàn bạo, quấy phá dân ta, khiến dân ta lầm than cực khổ. Khi
ấy ở trang lộc dã huyện Châu Nga có con gái Trưng tướng quân, cháu ngoại Hùng
Vương họ trưng húy Trắc, thực là hào kiệt trong đám nữ nhi, bậc thánh thần trên
đời.
Bọn
Tô Định đã giết Thi sách chồng bà, bà vô cùng căm phẫn đã chỉ thiên tận địa thề
không sống cùng Tô Định. Bà cùng em gái Trưng nhị khởi binh đến cửa sông Hát (Xứ
Sơn Tây) thiết đàn cáo tế thiên sơn thủy địa bách thần, kết thành cơ ngũ, lại truyền
di thư đến các đạo, châu, quận nơi nào có Nam Nữ tướng tài, anh hùng thao lược,
mộ được hương binh gia thần thì dẫn đến ứng tuyển dẫn quân đánh giặc. Thế rồi
chí tang bồng lòng cô chỉ, tức khắc truyền bảng chiêu binh, phủ dụ anh tài.
Không đến 5 ngày, các bậc hào kiệt đến hưởng ứng, nhân dân gia thần sĩ tử đến
phụ giúp, hàng vạn người dẫn đến ứng tuyển, Trưng nữ thấy ông, anh hùng thao
lược, trí dũng hơn người, văn võ toàn tài cho đây là bậc anh tài nhất trong
thiên hạ và phong làm tiền đạo đô chỉ huy sứ đại tướng quân hiệp đồng tướng sĩ,
dấy binh đánh giặc. Ông bái tạ nhận quan chức dẫn quân thủy bộ hiệp đồng cùng Trưng
nữ dẫn quân tiến thẳng vào đồn Tô Định đánh nhau một trận. Quân Tô Định đại
bại, quân ta thu được nhiều khí giới lương thực, mã thất vô số, 65 thành xây
đều thuộc về nước Nam, Trưng nữ lên ngôi vua mở yến chúc mừng, ban thưởng cho
các tướng có công, ban cho ông thực ấp ở trấn Hải Dương: ông bái tạ rồi trở về
thực ấp nhậm sở ở Hải Dương, khi ấy phụ lão nhân dân, gia thần đến bái tạ tâu
rằng "Từ khi ông thiết lập học đường ở thần khu, giáo hỗi sĩ dân làm điều
nhân nghĩa, huấn thị nhân dân sống cho hòa mục đã thành phong tục. Nay dân giáo
hóa đã mở mang, cương trù đã ổn định vững vàng, hình phạt đã giảm bớt, dân
chúng đều lễ nghĩa ân phú âu ca đó nhờ cả công đức của ông, đã lấy uy đức để
vọng phụng vậy. Nay khu chúng thần đến làm lễ bái hạ và xin làm gia thần tử. Vì
vậy nơi đây nay là học đường, sau này xin cho làm nơi thờ tự" Ông nghe
xong và đồng ý và từ đó ông thư nhàn, trở lại nơi học đường mổ châu bò, giết
lợn bái yết thiên hạ, thiết yến nhân dân, gia thần sĩ tốt ở bản khu, dân khu
đến đến ẩm. Ông nói với mọi người rằng "Ta với dân đã thành cố nghĩa, đâu
có một ngày mà quên nhau được. Trước đây ta lập học đường rồi yết bảng chiêu
binh tại khu các vị. Ta đánh dẹp được Đinh tặc cũng là nhờ vào lòng trời giúp
đỡ mà nay khu các vị có lòng với ta như vậy ta rất trọng, ta di mệnh cho muôn
đời sau để khu các vị được thờ phụng, ta viết chúc thư và ban cho dân khu hai
hốt vàng để sau này tu sửa tự khí". nhân dân gia thần, sĩ tử hoan hỉ yến
ẩm, bái tạ lãnh mệnh và nhận tờ ủy chúc, công việc xong, ông xa giá về nhậm sở.
Hôm ấy là thượng tuần tháng 11 mùa đông,
ông đang ngỗi ở sảnh đường bỗng trong không gian trời đất tối tăm mù mịt, mưa
gió sấm chớp ầm ầm ngày tựa như đêm, rồi một đám mây vàng trên trời giáng xuống
sảnh đường như xa giá nghênh đón ông, ông cỡi mây bay lên không trung. Trong
khoảng khắc trời quang mây tạnh không thấy ông đâu nữa, ông đã hóa luôn vậy. Hôm ấy là ngày 11 tháng
11 gia thần sĩ tốt ai lấy đều kinh sợ, lập
tứ thành biểu tâu với triều đình, Trưng nữ Vương nghe tin liền sai sứ phụng sắc
phong là tôn Thần.
Phong
ông là đương cảnh Thành Hoàng tế thế an dân uy dũng hùng lược thông minh bác
đạt Trí minh ngưng hưu trung đẳng thần, sắc ban cho khu Tiên Đôi Nội được rước
mĩ tự về cho dân được lập Miếu thờ phụng. Kính thay!
Lại
nói: Từ ấy trở về sau rất là linh ứng, nhiều đời vua được ban cấp tặng sắc gia phong
mĩ tự Nhất Vị Đại Vương.
Lại
nói, trải đến các đời Ngô Hán Tống Tề Lương chừng 340 năm cho đến tiền Lý, hậu
Lý, nội thuộc Tùy Đường, Nam Bắc phân tranh, Ngô vương kiến quốc, đến khi 12 sứ
quân chia trị đất nước. Khi ấy có Đinh Tiên Hoàng (húy Bộ Lĩnh) khởi nghĩa ở
Hoa Lư dẫn quân qua đây dừng giá trú binh ở ngôi Miếu này, cầu xin ngài bảo hộ
quốc gia, tiễu trừ tàn tặc, để đất nước được thanh bình. Đinh công đánh dẹp
giặc, thiên hạ bình yên, lên ngôi vua nghĩ lại trước đây có cho trú quân ở ngôi
Miếu nơi này, cầu đảo được một vị thần hiểu ứng âm phù nên đã ban sắc phong mĩ
tự là đương cảnh Thành Hoàng Đại
Vương hiển hựu Trung túc Anh nghị Trí Minh Tôn thần. Cho đến đời vua Lý thái tổ (húy là Lợi) khởi nghĩa ở Lam Sơn, ba ngàn
hổ lữ tiễu trừ nhà Hồ, đánh dẹp người Ngô, dành được thiên hạ, thái tổ liền
phong thêm mỹ tự là Cương nghị Anh
linh Đại vương. Sắc ban cho khu Tiên Đôi
Nội sùng tu miếu điện để thờ phụng ông. Thật tốt đẹp thay!
-
Ngày thần sinh là mồng 10 tháng giêng, lệ trên dùng cỗ chay, dưới xôi, rượu,
thịt lợn đen, ca hát.
-
Ngày thần hóa là ngày 11 tháng 11, lệ chính dùng cỗ chay, dưới thịt bò lợn, xôi
rượu, cấm ca hát.
- Ngày
tốt tháng giêng năm Hồng phúc nguyên niên (1572) Hàn Lâm viện bộ lễ, đại học sĩ
Nguyễn Bính vâng soạn bản chính.
- Ngày
tốt tháng 8 năm Vĩnh hựu 6 (1740) Nội các bộ lại tuân theo bản cũ viết lại.
-
Ngày tốt tháng 3 năm bảo Đại 13(1938) dân xã vâng sao lại.
(Bản dịch nghĩa được chép lại nguyên gốc do Nguyễn
Thị Trang - Cán bộ Viện Hán Nôm dịch ngày 10/11/2000)
|